Thủ tướng Võ Văn Kiệt –  Người có email đầu tiên tại Việt Nam

Lời bình của LinkLeads: Tại Việt Nam ngày nay, mỗi người chúng ta đều có ít nhất 1 email để có thể làm việc hàng ngày, giao tiếp với đối tác, khách hàng và nội bộ đồng nghiệp trong công ty. Vậy nhưng ít ai biết email đã xuất hiện tại Việt Nam từ bao giờ, ai là những người đầu tiên sử dụng email và sử dụng email để làm gì? Những khó khăn không phải ít cả về công nghệ lẫn sự hiểu biết của xã hội Việt Nam thời đó nhưng để email được phổ biến nhanh và rộng như hiện nay, có lẽ, nguyên nhân chính là những người đứng đầu chính phủ Việt Nam đã tiên phong sử dụng email như 1 công cụ để làm việc với các bạn bè quốc tế. Người tiên phong ấy là Thủ thướng Võ Văn Kiệt với email vvkiet@badinh.ac.vn. LinkLeads xin gửi tới các bạn bài viết được trích đăng từ báo ICT News vào cuối tháng 11/2012 vừa qua do ông Trần Bá Thái – người nằm trong 10 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến Internet Việt Nam.

Đứng thứ 2 trong top 10 nhân vật có ảnh hưởng lớn nhất đến Internet Việt Nam, năm 1994 ông Trần Bá Thái, hiện là Phó chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam đã được tin tưởng giao phó xây dựng hệ thống email đầu cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt với địa chỉ vvkiet@badinh.ac.vn

Thủa khai thiên lập địa của Internet Việt Nam

Thời kỳ đất nước bắt đầu mở cửa những năm 90, nhưng Viện Khoa học Việt Nam đã có sự hợp tác quốc tế tương đối tốt. Nhiều cán bộ của Viện đã được đào ở Đông Âu và cả Tây Âu từ những năm trước đó. Đây là lợi thế dẫn đến “cơ duyên” cho chúng tôi trở thành người tiên phong nghiên cứu về Internet tại Việt Nam.

Năm 1992, chúng tôi may mắn được dự cuộc họp về Internet quốc tế lần 2 ở Kobe (Nhật). Thời kỳ đó Internet mới chỉ dừng lại trong giới khoa học và một số trường đại học của Mỹ và châu Âu. Ban đầu chúng tôi nhìn nhận Internet như là hướng khoa học để tìm hiểu. Cũng trong năm 1991, chúng tôi đã được thử nghiệm Internet với một trường đại học của Đức trong khuôn khổ dự án của UNDP.

Hồi đó, chúng tôi chưa có tên miền Việt Nam, chỉ thử nghiệm email trên máy chủ của trường đại học của Đức, dựa trên công nghệ nền của Unix (thực chất là công nghệ của Internet sau này). Khi thử nghiệm với Đức, chúng tôi chưa làm được gì nhiều vì dự án không có khoản ngân sách nào chi cho công việc này. Đơn giản bởi lúc xây dựng dự án với UNDP Internet chưa thực sự vươn ra khỏi Hoa Kỳ.

Đến năm 1992, chúng tôi đã kết nối với một nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Quốc gia Úc, nên việc thử nghiệm này được khởi động lại. Ban đầu, chúng tôi chưa có khái niệm mã nguồn mở, nhưng đã mua phần mềm Shareware có mã nguồn về tự phát triển cho chạy trên DOS (lúc đó Windows chưa ra đời) nối với máy chủ Unix của Trường đại học Quốc gia Úc để tạo phần mềm cho người sử dụng cuối cùng. Chúng tôi thử nghiệm với một người Úc, ông Rob Hurle chưa từng gặp mặt mà chỉ nói chuyện qua điện thoại. Lúc đó chúng tôi tập trung tạo account và thử nghiệm với tên miền của Úc, vì lúc đó Việt Nam chưa đăng ký tên miền.

Địa chỉ email đầu tiên của chúng tôi lập ở Úc là hanoi@coombs.anu.edu.au. Địa chỉ này dùng như một thùng thư đầu mối cho toàn bộ email liên lạc giữa Việt Nam và quốc tế. Mỗi người sử dụng ở Việt Nam được tạo một địa chỉ email mang tên miền Việt Nam .VN là username@hanoi.ac.vn. Khi chuyển sang Úc những địa chỉ này được gắn dưới coombs.anu.edu.au để thông thương quốc tế bởi nước ta chưa đăng ký tên miền quốc gia .VN trên Internet..

Tại Việt Nam chúng tôi xây dựng hệ thống máy chủ email theo tiêu chuẩn Internet để người dùng kết nối. Nhưng trong một số trường hợp, chúng tôi phải in ra để họ đến lấy, thậm chí có khi mang đến tận nơi cho họ, vì thời đó rất ít người có modem để nối mạng. Một điều rất thú vị là những người thử nghiệm email đầu tiên tại Việt Nam lại nhà những người liên quan đến khoa học xã hội và có nhu cầu giao lưu quốc tế như Giáo sư Sử học Phan Huy Lê, Giáo sư Điểu học Võ Quý, Uỷ Ban Chất độc Da cam, Khoa Sinh học Đại Học Tổng hợp Hà Nội…

Thiết lập email đầu tiên cho Thủ tướng

người có email đầu tiên tại Việt Nam

Đến tháng 4/1994, GS Đặng Hữu lúc ấy làm Bộ trưởng Bộ KHCN và Môi trường đã giao cho chúng tôi thiết lập email để phục vụ cho chuyến viếng thăm của Thủ tướng Thụy Điển. Hồi đó, để phục vụ cho việc thiết lập email cho Thủ tướng, chúng tôi phải tự tạo phương tiện làm việc cơ động cho mình: mua “trao tay” một chiếc laptop đơn sắc (đen trắng) đã qua sử dụng nặng 3- 4 kg của một Việt kiều ở Mỹ mang về. Ở thời điểm đó, Internet vẫn là chuyện “tranh tối, tránh sáng” nên để có tên miền Việt Nam (.VN) GS. TS. Trần Văn Đắc của Bộ KHCN và Môi trường đã phải ký công văn nhưng không đóng dấu rồi fax sang APNIC để đăng ký tên miền cho 1 chủ thể duy nhấtquốc gia .VN.

Sau khi có địa chỉ tên miền rồi, chúng tôi mới tạo lập email server đầu tiên có tên miền Việt Nam kết nối trực tiếp Internet. Thời kỳ đó, chúng tôi chưa có kinh nghiệm lắm về cấu hình, quản lý tên miền, nên địa chỉ email của Thủ tướng là vvkiet@badinh.ac.vn thay vì vvkiet@badinh.gov.vn như mong muốn. Trước đó, chúng tôi đã trao đổi với Ban thứ ký của Thủ tướng và tìm ra một cái tên “badinh” chung chung và có hình ảnh của nơi làm việc của Chính phủ. (Cho mãi đến tháng 9/1997, theo yêu cầu của Tổng cục Bưu điện chúng tôi chuyển tên miền này cho VDC quản lý).

Việc thử email thời đó cũng phức tạp, chúng tôi phải thử cả với nhóm thư ký của Thủ tướng Thuỵ Điển. Nhưng khi nối xong để bắt đầu thử nhận email thì đúng vào dịp lễ Phục sinh nên nhóm thư ký này nghỉ lễ. Thế nhưng điều chúng tôi tưởng là “sự cố” đã được khắc phục dễ dàng nhờ tính chất “mọi lúc, mọi nơi” của Internet, bởi nhóm thư ký này tuy nghỉ lễ nhưng vẫn làm việc ở nhà. Ngay sau đó, chúng tôi đã thử nghiệm tiếp việc gửi và nhận email rồi cài thẳng phần mềm nhận thư này vào máy laptop của Ban thư ký của Thủ tướng Võ Văn Kiệt.

Mừng như mở Internet

Ngày 19/11/1997, Tổng cục Bưu điện chính thức cấp phép cho bốn nhà khai thác, trong đó có NetNam được cung cấp dịch vụ Internet. Lúc đó. tôi chỉ nghĩ là những mong muốn của chúng tôi cuối cùng đã thành hiện thực và được xã hội chấp nhận như những công trình nghiên cứu triển khai. Cá nhân tôi hài lòng khi mình tham gia trong nhóm kỹ thuật đầu tiên để đưa Internet vào Việt Nam. Tôi cũng tự hào hơn vì Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã làm đúng vai trò hạt nhân của đơn vị khoa học mở đường khai thông cho xã hội để phát triển Internet của Việt Nam.

Hồi đó, chúng tôi chỉ nghĩ đơn giản đó là một thứ công nghệ giúp chúng ta trao đổi được thông tin tương đối độc lập với hạ tầng viễn thông, chứ không hề tưởng tượng được sự phát triển mà mức độ xâm nhập của nó vào đến đời sống xã hội như ngày nay. Tuy nhiên, nếu xã hội thời đó đồng bộ hơn, chẳng hạn như sự kết hợp giữa phần quản lý viễn thông và  Internet thì Internet có thể sẽ phát triển tốt hơn nữa. Chúng ta đã nói nhiều đến công nghiệp nội dung, nhưng thực chất chúng ta chưa mở đường cho lĩnh vực này phát triển.

Bây giờ, sau 10 năm Internet chính thức được cung cấp, nhiều người hay dùng từ “bùng nổ” hay “cơn lốc” để nói về sự phát triển của Internet. Những từ này có vẻ không đúng khi chúng ta đang có tỷ lệ dân số được dùng băng rộng quá thấp. Nếu làm bùng nổ Internet băng rộng thì đứng về mặt viễn thông  chỉ có công nghệ không dây mọi lúc mọi nơi mới có thể làm được. Còn đứng về mặt CNTT thì không chỉ có máy tính, mà phải là thứ cầm tay được và phải để toàn xã hội tham gia để giải phóng sức sống của thông tin. Tôi cảm nhận được rằng, những năm tới Internet sẽ phải là không dây và cầm tay và tất cả đều có thể tham gia nội dung.

LinkLeads – Tư vấn và cung cấp dịch vụ Email Marketing chuyên nghiệp